Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, thực
dân Pháp âm mưu quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Trước tình hình đó,
Bác Hồ tranh thủ thời gian hòa hoãn sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 đã chỉ thị cho
Bộ Quốc phòng tổ chức một trường quân sự theo khuôn phép nhà binh chính quy đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vì thế, với học viên khóa đầu của ngôi
trường này, ngày khai giảng đầu tiên vô cùng đáng nhớ.
Phạm Thiệu
Kí ức về đội tiêu binh danh dự
Sau khi
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với rất nhiều thử thách cả
trong và ngoài nước. Đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le trở lại xâm lược Việt
Nam một lần nữa trong khi lực lượng vũ trang cách mạng của ta còn non trẻ.
Vì vậy,
nhu cầu cán bộ chỉ huy có kiến thức cơ bản về quân sự là rất lớn. Nhận thấy
tình hình đó, Bác Hồ tranh thủ thời gian hòa hoãn sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
đã chỉ thị cho Bộ Quốc phòng tổ chức một trường quân sự theo khuôn phép nhà
binh chính quy đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trường Võ bị Trần
Quốc Tuấn (tiền thân của trường Sĩ quan Lục quân I hiện nay) đã được thành lập
trong hoàn cảnh như vậy.
Bác Hồ trao lá cờ thêu 6 chữ “Trung với nước, Hiếu với dân” cho trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. (Ông Đỗ Hạp, người bồng súng đứng bên tay phải người cầm cờ). |
Đến nay,
hơn 70 năm đã trôi qua, những học viên khóa đầu của Trường người còn, người mất.
Nhưng may mắn làm sao chúng tôi có cơ hội đã gặp được ông Đỗ Hạp (sinh năm 1927,
học viên khóa đầu, hiện nay là Trưởng ban liên lạc truyền thống khóa I trường
Võ bị Trần Quốc Tuấn) để nghe ông chia sẻ nhiều câu chuyện thú vị.
Ông tâm
sự: “Thời bấy giờ, việc chọn người vào học trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đòi hỏi
phải có trình độ học vấn tương đối cao. Tiêu chuẩn chọn học viên được Bác Hồ đồng
ý là chọn những người có trình độ cao đẳng tiểu học trở lên (thời đó ở miền Bắc
chỉ có 5 trường đào tạo lên trình độ cao đẳng). Nhưng Bác cũng lưu ý hai trường
hợp cần đặc biệt châm chước là: Đối với dân tộc ít người thì chỉ cần trình độ
tiểu học và với các chiến sỹ đang chiến đấu ở mặt trận miền Nam thì chỉ cần giấy
giới thiệu của Mặt Trận. Nói vậy để thấy rằng, được là học viên trường Võ bị là
niềm tự hào và là một thử thách lớn với những chàng trai chưa từng quen chịu đựng
gian khổ. Thời đó, tôi đang là học sinh trường Cao đẳng tiểu học Đông Dương, được
tập trung về trường từ cuối tháng 4/1946. Trường lúc bấy giờ đặt tại Trường bộ
binh và pháo binh của quân đội Pháp đóng trên địa phận xã Mai Trai nay thuộc thị
xã Sơn Tây. Từ đầu tháng 5, chúng tôi bắt đầu được học quân phong, quân kỷ, luyện
tập đội ngũ để chuẩn bị cho ngày khai giảng”.
Ông Đỗ Hạp
cho biết, lúc bấy giờ Bác Hồ chỉ thị cho Bộ Quốc phòng làm sẵn một lá cờ đỏ
thêu 6 chữ vàng “ TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN” để Bác trao cho nhà trường làm
cờ truyền thống. Ban Giám Hiệu đã thành lập đội danh dự để tiếp nhận lá cờ lịch
sử này. Đội danh dự gồm có 6 thành viên đại diện cho ba miền là Bắc, Trung, Nam
và người nhận cờ được Bác chỉ định phải là một học viên quê Miền Nam (người được
chọn là ông Bùi Minh Trân). Ông Đỗ Hạp được chọn là người đại diện cho Miền Bắc
trong đội danh dự đó.
Nhớ lại
khung cảnh của buổi khai giảng đầu tiên năm ấy, ông kể: “Lễ khai giảng năm đó
được tổ chức đúng ngày Chủ nhật 26/5/1946, tại sân vận động của trường sau tòa
nhà trung tâm. Toàn thể chúng tôi, quân phục chỉnh tề, đội ngũ nghiêm chỉnh. Gần
đến giờ khai mạc, các vị khách mời lần lượt đến đông đủ trong đó có nhiều thành
viên trong Chính phủ, Ban thường trực Quốc hội, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp
quốc dân, các hội cứu quốc, các đại diện tôn giáo ở Trung ương, Bộ Tư lệnh khu
2, chính quyền và các đoàn thể ở Sơn Tây.
Sau lễ
chào cờ và mặc niệm là bài diễn văn khai mạc của Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phan
Anh và lời phát biểu của giám đốc Hoàng Đạo Thúy. Tiếp đó, Bác Hồ đã thân mật
nói chuyện với chúng tôi. Bác dạy chúng tôi rằng, anh em thuộc nhiều giai cấp,
tư tưởng khác nhau nên trước hết phải đoàn kết, đoàn kết chặt chẽ, thật thà. Phải
có kỷ luật, phải noi gương các liệt sỹ hồi khởi nghĩa và làm gương cho các lớp
về sau; là thanh niên phải thích làm việc to chứ không thích làm quan lớn. Cuối
cùng Bác dặn, anh em phải Trung với nước, Hiếu với dân. Đây là bổn phận thiêng
liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sỹ
trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta. Chúng tôi hưởng ứng lời Bác bằng
những lời thề vang lên như sấm rền”.
Những kỉ niệm về Bác Hồ
Trong cuộc
đời binh nghiệp của mình, ông Đỗ Hạp tuy về sau có đôi lần được gặp Bác nhưng gặp
Bác lần này là lần đầu tiên và cũng là lần để lại nhiều kỉ niệm sâu sắc nhất. Ông
tâm sự: “Khi còn học ở trường Cao đẳng tiểu học Đông Dương, tôi đã cực kỳ ngưỡng
mộ Nguyễn Ái Quốc nhưng chưa được gặp. Thế rồi, sau khi cách mạng tháng 8 thành
công, ước mơ được gặp cụ Hồ ngày càng tha thiết với tôi. Vì thế, khi được chọn
vào đội danh dự tiếp nhận cờ truyền thống, được đứng gần Bác, với tôi là một
vinh dự rất lớn. Cảm xúc lúc đó cho tới bây giờ vẫn rất khó diễn tả, tôi thấy vừa
xốn xang, vừa hồi hộp mà vừa gần gũi, thân thiết. Bài học đầu tiên mà tôi được
Bác dạy chính là 6 chữ vàng “Trung với nước, Hiếu với dân”. Bác giải thích ý
nghĩa của 6 chữ vàng này với những bài học rất sâu sắc về chiến đấu và lòng yêu
nước. Tôi và những anh em đồng học cho tới hôm nay vẫn ghi nhớ như in những lời
dạy đó, và trong suốt cuộc đời làm cách mạng của mình coi đó là kim chỉ nam
trong mọi hành động.
Ông Đỗ Hạp
vẫn còn nhớ như in buổi lễ trao cờ năm ấy. Đó là thời điểm ông được nhìn Bác rõ
nhất. Ông kể: “Sau khi căn dặn chúng tôi những điều tâm huyết, Bác bước xuống lễ
đài đi về phía đội danh dự. Cục trưởng Cục quân huấn Phan Phác cầm lá cờ đi
theo Bác. Khi Bác đến trước đội danh dự, đồng chí Bùi Minh Trân bước lên 3 bước
bằng một động tác rất thuần thục và nhận từ tay Bác lá cờ thêu 6 chữ vàng (sau
này lá cờ này trở thành lá cờ truyền thống của trường cho tới tận ngày nay).
Bác Hồ thân mật nắm chặt tay đồng chí Trân, tiếng hô “Hồ chủ Tịch muôn năm” lại
vang lên nhiều lần. Chúng tôi đã bắt đầu cuộc đời binh nghiệp cách mạng bằng một
lễ tuyên thệ, một lễ trao cờ trọng thể và những lời giáo huấn cao cả, chí tình
như thế đấy”.
Theo
dòng cảm xúc, ông Hạp cho biết, Bác Hồ trong mắt anh em học viên khoá I chúng
tôi là người cha đôn hậu rất ân cần. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, trong bối
cảnh nước ta đang ở thế như ngàn cân treo sợi tóc mà Bác luôn quan tâm tới đời
sống của học viên và nhất là đối với anh em trí thức. Ngày 31/5/1946 Bác phải
sang Pháp công tác mà ngày 26/5 Bác vẫn tranh thủ lên dự lễ khai giảng khóa học
và dạy dỗ chúng tôi. Thế rồi khi đi Pháp về được mấy hôm, Bác lại vồn vã lên
thăm Trường. Tính ra khóa học đầu tiên của các học viên trường Võ bị Trần Quốc
Tuấn kéo dài trong 6 tháng, Bác lên đã lên thăm 3 lần (trong khi thời điểm này,
thời gian ở trong nước của Bác chỉ có hơn 1 tháng).
Trong buổi
nói chuyện hôm đó, ông Đỗ Hạp nhớ như in những lời nói nặng tính thân tình:
“Sau khi ở Pháp về, nhớ những đồng chí trẻ của mình ở đây, đồng chí già liền
lên thăm ngay và căn dặn anh em mấy điểm ....”. Cách xưng hô thân tình, đối xử
với mọi người bình đẳng chính là những kỷ niệm và bài học không bao giờ quên với
học viên khóa I trường Võ bị Trần Quốc Tuấn chúng tôi.
Học
viên khóa I trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đều có đóng góp quan trọng cho đất nước
Học viên
khóa I của Trường đều là những người có đóng góp đáng kể cho cuộc cách mạng của
dân tộc. Trong số gần 300 học viên ra trường đợt đầu, gần 100 người đã hi sinh
vì tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Đông Dương. Mỗi trường hợp
hi sinh đều là một tấm gương về lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì nghĩa cả,
vì độc lập tự do của tổ quốc. Trong số các liệt sỹ đó có 2 người được phong Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân (là Đại tá tình báo huyền thoại Phạm Ngọc Thảo
- nguyên mẫu nhân vật Nguyễn Thành Luân trong bộ phim Ván bài lật ngửa nổi tiếng
của điện ảnh Việt Nam và Thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn , Tư lệnh quân đoàn hy
sinh trên đất nước Chùa Tháp ). Ngoài ra các học viên khóa đầu còn 4 người được
phong Trung tướng, 2 người được phong Thiếu tướng và rất nhiều người thành danh
trong quân đội cũng như khi công tác ngoài xã hội.
Khác với lời cụ Đỗ Hạp, cụ Hoàng Đạo Thuý cho biết không có việc Bác Hồ lên thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn sau khi đi Pháp về.
Trả lờiXóa