Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Tìm hiểu nền khoa học và giáo dục Nhật Bản ( kỳ 2 )



Kinh tế của Nhật Bản
Nhật Bản có năng lực công nghiệp rất lớn với công nghệ sản xuất tiên tiến hàng đầu thế giới về các sản phẩm thép , vật liệu phi kim loại , xe có động cơ , thiết bị điện tử , máy móc , chế tạo tầu biển , hoá chất , hàng dệt may , thực phẩm đã chế biến … Ngành xây dựng và cầu đường của Nhật ( dân dụng , công nghiệp , cầu đường …) đã ra đời từ lâu với công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Nhật Bản nằm giữa đại dương , hàng hải phát triển mạnh , có 3.751 tầu biển với tổng trọng tải hàng hoá khoảng 183 triệu tấn , đứng thứ hai thế giới về năng lực hàng hải ,chiếm 15,7% tổng trọng tải của thế giới , chỉ xếp hạng sau Hy Lạp ( Grèce).
Nhật Bản có khu vực kinh tế dịch vụ đa dạng , có sức cạnh tranh cao , đặc biệt ở các ngành kinh tế mũi nhọn. Chỉ số lạm phát của Nhật , theo IMF , trong khoảng thời gian từ 1998 đến 2008 là thấp nhất thế giới.


Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính và ngân hàng lớn hàng đầu thế giới . Thị trường chứng khoán Tokio lớn thứ hai thế giới . Tập đoàn tài chính Mitsubishi có số vốn 1.700 tỉ USD. Cán cân thương mại của Nhật nghiêng về phía dư thừa .Dự trữ ngoại tệ của Nhật thuộc hàng đầu thế giới .
Nhật đứng hàng thứ tư thế giới về xuất khẩu ( thiết bị giao thông , xe cơ giới , hàng điện tử ,máy móc , hoá chất ) . Bạn hàng nhập khẩu của Nhật là Mỹ 22,9% , CHNDTH 13,4% , Hàn quốc 7,8% .
Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu rất lớn , đặc biệt từ CHNDTH 21% , từ Mỹ 12,7% , từ Ảrập Xêut 5,5% .
Khoa học công nghệ Nhật Bản
Nhật là 1 trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học công nghệ , có khoảng 700.000 ( bảy trăm ngàn ) nhà nghiên cứu khoa học . Ngân sách chi cho nghiên cứu và phát triển của Nhật đứng hạng ba thế giới . Nhật Bản là nhà phát minh trong nhiều lĩnh vực , như : ôtô , Rôbốt công nghiệp , thiết bị quang học , chất bán dẫn , thiết bị điện tử , sản phẩm hoá chất . Nhật Bản có nhiều thành tựu ứng dụng khoa học nổi tiếng thế giới , trong đó có tầu hoả cao tốc Shinkansen type 500 , ôtô Toyota Prius dùng hỗn hợp nhiên liệu xăng-điện ,Robot thông minh AIBO , Module Kibo đã phóng lên nghiên cứu không gian vũ trụ . Nhật Bản sở hữu 402.200 trong số 742.500 Robot công nghiệp của thế giới , chiếm 6 trong số 15 nhà sản xuất ôtô lớn nhất thế giới , chiếm 7 trong 20 nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất thế giới .
Nhật Bản đứng đầu Châu Á về giải thưởng Nobel và giải thưởng Fields . Từ 1949 đến 2008 , Nhật đã 9 lần được nhận giải Nobel khoa học , 3 lần nhận giải Fields toán học của thế giới.
Đặc thù tổ chức kinh tế của Nhật Bản
Khoảng thời gian 1960 – 1980 được coi là thời gian phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản ( miracle économique japonais ) . Sự phát triển này có điểm đặc trưng là dựa trên 1 nguồn vốn quan trọng về con người Nhật Bản ( capital humain ) cộng với sự liên kết giữa Nhà nước và các doanh nghiệp , 1 nền sản xuất hướng vào xuất khẩu ( trong đó phần rất quan trọng là hướng sang Châu Á và Châu Mỹ ) , 1 nền đạo lý vững chắc về lao động kiểu Nhật , tài khéo léo bậc thầy về những kỹ thuật mũi nhọn dựa trên thành tựu nghiên cứu khoa học và thêm vào đó nhờ mức chi thấp cho quân sự ( chỉ chiếm khoảng 1% PIB ).
Nhật Bản có đặc thù tổ chức kinh tế khác với nhiều quốc gia :
-Có những mối liên kết chặt chẽ giữa những xí nghiệp công nghiệp , những nhà thầu ( sous-traitants) , những nhà phân phối , trong những tập đoàn có tên là keiretsu .
-Có năng lực mạnh của các Nghiệp đoàn giải quyết có hiệu quả những tranh chấp trong xí nghiệp với văn hoá đối thoại và cách vận động giải quyết các yêu sách về tiền lương thường xảy ra hàng năm vào mùa xuân .
-Sự đầu tư mạnh cho nghiên cứu và phát triển .
Từ 1990 , tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản chậm lại . Năm 2008 Nhật Bản chính thức bước vào suy thoái .Không giống Phương Tây suy thoái bắt đầu từ khủng hoảng cho vay thế chấp . Suy thoái ở Nhật có nguyên nhân từ sự sụt giảm mạnh về khối lượng đầu tư và giảm sút mạnh nhu cầu ở nước ngoài về các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Nhật . Nợ công của Nhật rất lớn , hiện chiếm đến 170% PIB .
Trong quá khứ và cho đến gần đây , nhiều nhà tuyển dụng Nhật Bản cam kết bảo đảm công ăn việc làm suốt đời cho người làm công ( à vie et pour la vie ). Nhưng từ khi bùng nổ bong bóng đầu tư ở Nhật , 1 loạt các nhà thầu bị đóng cửa thì việc sa thải lao động đã xảy ra , xoá bỏ huyền thoại Nhật Bản về công ăn việc làm suốt đời . Khủng hoảng kinh tế là lý do cội nguồn của sự gia tăng nạn thất nghiệp ở Nhật ( 5% đầu năm 2000 , 4% năm 2008 ) . Nó định hình sự nghèo khổ , tình trạng người không có chỗ ở , tình trạng việc làm tạm bợ . Hiện nay Nhật đang thực hiện chính sách cải cách kinh tế . Chương trình cải cách đã đi đúng quỹ đạo , chậm nhưng đã tạo được xu thế không thể đảo ngược và đã có kết quả bước đầu .
Giáo dục đào tạo của Nhật Bản
Từ thế kỷ thứ 6 , nền giáo dục của Nhật Bản chịu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa và Phật giáo . Nhưng khác với Trung Hoa , giáo dục của Nhật bản ở thời kỳ Edo bao gồm cả giáo dục về kinh tế , nông nghiệp , kế toán , nghệ thuật và khoa học . Sang thời kỳ Meiji ( Minh Trị ) ,vào khoảng 1868 , Nhật Bản đã du nhập nền giáo dục của Phương Tây , dạy trong các trường đại học và trong các trường quân sự .
Cuộc cải cách giáo dục ở Nhật theo nền giáo dục Phương Tây kéo dài suốt 20 năm , đến năm 1890 .
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 , Nhật Bản lại thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai . Từ cuối thập niên 1960 , người Nhật toả đi học khắp nơi trên thế giới để trở về xây dựng hệ thống giáo dục như ngày nay
Hiện nay hệ thống giáo dục Nhật Bản áp dụng mô hình Anglo-Saxon . ( còn nữa )

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Viết nhận xét, nếu chưa đăng kí, bạn có thể ghi tên mình (hoặc nickname) và xuống mục "Chọn 1 nhận dạng" nháy vào "Ẩn danh" rồi xuất bản nhận xét.