Là thế hệ
con em có phụ huynh cùng tham gia hoạt động thời kì bí mật rồi kháng chiến chống
Pháp, nhất là sau này lại cùng học Trường Văn hóa quân đội – Thiếu sinh quân
Nguyễn Văn Trỗi thuở chống Mỹ (1965-1970) nên chúng tôi có một tình bạn thân
thiết. Có nhiều chuyện hay của thế hệ các cụ được kể lại cho con cái nên chúng
tôi cũng được biết. Cuộc đời lão đồng chí Đào Chính Nam (1908-1987) với nhiều
tình tiết thú vị. Nhân kỉ niệm 105 ngày sinh của ông (15/5/1908 – 15/5/2013)
xin có bài viết như một nén tâm nhang tưởng
nhớ.
Các ông Vương Thừa Vũ Phó chính ủy, Nguyễn Sơn Khu trưởng, Đào Chính Nam Khu phó kiêm Tham mưu trưởng Liên khu IV. |
Cha tôi (Thiếu tướng Trần Tử Bình) và ông từng nhiều
năm xây dựng Trường Sĩ quan Lục quân, đào tạo và cung cấp hàng nghìn sĩ quan
cho quân đội cho cuộc kháng chiến lần thứ nhất, cho thắng lợi của Chiến dịch Điện
Biên Phủ lịch sử 1954. Ông là đại tá Đào Chính Nam (tên thật là Đào Ngọc Tuấn) – một trong 20 học viên Việt Nam học Quân sự Hoàng
Phố (1926-1927) cùng Lê Hồng Phong, Phùng
Chí Kiên, Nguyễn Sơn, Lý Ban...
Về dòng họ Đào ở địa đầu Tổ quốc
Đã từ lâu lắm, ở vùng
địa đầu Móng Cái có những gia
đình họ Đào kéo
nhau ra lập nghiệp. Mở
đầu là cụ Đào Đình Yết, hậu duệ của cụ Đào Duy Từ. Nhiều người dòng họ Đào được triều
đình phong làm quan trấn ải nơi địa đầu. Trong
đó cụ Đào Quang Thể (Cai Thể) từng tham gia Quang phục Hội do cụ Phan Bội Châu chủ xướng. Tháng 1-1918, Cai Thể vận động anh em binh lính yêu nước
ở đồn Móng Cái làm binh biến. Công vụ bất
thành, ông bị xử bắn cùng 11 đồng chí
tại sân vận động Đông Trì. Trước khi chết,
ông dõng dạc hô: “Việt Nam đời đời độc lập!”. Ngay sau đó, bà con Móng Cái lập miếu thờ
“Thập nhị Anh linh” để tôn vinh
12 người con đất Việt dũng cảm.
Năm
1925-1926, cả nước sục sôi phong trào ủng hộ cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh.
Noi theo tấm gương ông
chú Đào Quang Thể mà đầu 1927, Đào Ngọc
Tuấn vận động số anh
em tâm huyết sang Trung Quốc tìm đường cứu nước. Nhờ giới thiệu của các bậc
đi trước, ông về học ở Quân sĩ
Giáo đạo đoàn, sau đó được
tuyển về Quân sự Hoàng Phố. Cụ
Tôn Trung Sơn là người sáng
lập, Chu Ân Lai (sau này là Thủ
tướng nước CHND Trung Hoa) từng là Chính ủy. Trường có cả cố vấn Liên Xô (Borodin) cùng nhiều giáo viên
là đảng viên cộng sản Trung Quốc.
Hoạt động cách
mạng ở Trung Quốc
Tại
đây Đào Ngọc Tuấn được gặp cụ Hồ Tùng Mậu,
rồi tham gia “Quảng Châu Công
xã” cùng Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng,
Trương Văn Lĩnh... trong “Đảng Thanh niên”.
Cụ Hồ Tùng Mậu
từng bị chính quyền Tưởng bắt
giam ở Quảng Đông Pháp
viện. Ông Tuấn cùng ông Mạc Trường Vạn
không sợ nguy hiểm, lấy
danh nghĩa đồng hương, xin vào
thăm nuôi.
Hết
3 năm học, Đào Ngọc Tuấn
cùng ông Nguyễn
Văn Phát, Hoàng Nam Thịnh nhờ cụ Đặng
Tư Mạc (một nhà Nho yêu nước,
bạn cụ Phan) giới thiệu với Kỳ ngoại hầu Cường Để cho qua Nhật học tập. Chuyện không thành,
ông lại nhờ cụ Đặng giới thiệu với cụ Hồ Học Lãm cho đi học Nam Kinh. Tới Thượng
Hải được vài ngày, gặp lúc quân Nhật nổ súng, ông tham gia đánh Nhật trong “Cảm
tử đội” của các trường đại học. Sau đó gia nhập Quân đoàn thứ 19 của Thiếu tướng Tư lệnh Thái
Đình Khải và được giao làm đội
trưởng với tên là Đào
Bá Long.
Tháng
2-1932, Hiệp định đình chiến Trung-Nhật được ký kết, ông lưu lại nhà người bạn
học ở Hoàng Phố, chờ thời cơ đi Nam Kinh. Không may bị lộ, cả hai bị mật thám bắt.
Biết ông là người Việt, sau 4 tháng tạm giam, chúng tống xuống tàu đưa về Sài
Gòn rồi đưa ra Hải Phòng, cuối cùng giam ở Hỏa Lò (Hà Nội). Mật thám Pháp cố
tra hỏi xem ông đã làm gì, quan hệ với ai ở Trung Quốc, ai giới thiệu đi học
Hoàng Phố... nhưng thất bại.
Chúng đưa ông về giam ở Hải Phòng, Kiến An và cuối cùng là Hải Ninh với án tù 3
năm. Đến tháng 2-1934 mới được tha và bị quản thúc ở Hải Phòng.
Tháng 4-1934, Đào Ngọc Tuấn lại bí mật xuống tàu đi
Hương Cảng rồi vòng về Quảng Đông. Ông lại
viết
thư cho Cường Để nhờ giúp đỡ. Qua
hai người bạn học Hoàng Phố đang là cán bộ Quân Giải phóng, ông được giới thiệu
đi dự lớp huấn luyện cán bộ chỉ huy rồi về đơn vị Kháng Nhật ở thành phố
Sán Đầu. Đầu năm 1939, ông gặp lại đồng chí Phùng Chí Kiên và được giới thiệu
vào tổ chức “Thanh niên kháng
Nhật Hội” cùng các ông Nguyễn
Sơn, Lý Ban… Phùng Chí Kiên giao cho ông việc giảng dạy quân sự. Tháng 6 năm
đó, các hội viên tham gia đơn vị do ông chỉ huy khi quân Nhật tấn công vào Sán
Đầu.
Ở
Triều An, trong một trận đánh không cân sức, quân Nhật bao vây đơn vị nửa tháng trời. Ông bị thương do mảnh
pháo găm vào đầu. Chúng bắt ông. Sau 8 tháng giam và điều trị, chúng cho đi học
sĩ quan rồi giao làm
chỉ huy một đơn vị liên quân. Để giấu tung tích, ông khai tên mình là Đào Nhất
Dân. Viên sĩ quan họ Đào chấp hành mệnh lệnh nhưng nung nấu cơ hội chạy về căn
cứ Hồng quân Công nông. Nhờ
anh em hội viên Kháng
Nhật mà ông liên lạc được với Phùng Chí Kiên. Đồng chí Kiên chỉ thị: tiếp tục
hoạt động nội gián! Nhiều
lần ông cung cấp thông tin của
địch, bí mật chuyển vũ khí
cho phía cách mạng. Có lần lực lượng cách mạng phá kho vũ khí bị bọn Nhật phát
hiện, bao vây, anh em chạy vào đơn vị. Ông cho thay quần áo, cải trang thành
lính đơn vị rồi tạo điều kiện trốn thoát.
Lần
khác, quân Nhật tổ chức vây ráp quy mô lớn vào chiến khu nhưng thất bại, chúng nghi
ngờ ông. Vì thế tháng 2-1943, ông bí mật đưa đơn vị chạy về chiến khu. Thời
gian này, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn
hợp tác với Quốc dân Đảng chống Nhật, đơn vị ông nằm trong địa bàn của quân Tưởng
nên ông được điều lên Hưng Ninh, biên chế vào Ban Tác chiến Bộ Tham mưu Khu, mang quân hàm “đại hiệu” (ngang với hàm đại tá).
Cuối
năm 1944, một bạn học Hoàng Phố nhận nhiệm vụ thành lập quân khu mới có mời ông
cùng về; nhưng nhận thấy thời kỳ “Quốc-Cộng hợp tác” sắp kết thúc, chuẩn bị nội
chiến, nên ông kiên quyết giải ngũ, tìm đường hồi quốc. Vì giao thông ách tắc,
ông nằm chờ thời cơ…
Đưa 2.000 Việt kiều trở về nước
Ngày
15-8-1945, Trung Quốc và Nhật ký hiệp định đình chiến. Nghe tin Pháp đang tạo sức
ép buộc 2.000 Việt kiều ở Thượng Hải trả cho chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch ở
miền Nam Việt Nam, trong khi bà con kiên quyết đấu tranh để được hồi hương về
miền Bắc. Ông vội viết thư ủng hộ và vạch trần âm mưu của thực dân Pháp bắt đồng
bào về Nam làm bia đỡ đạn. Bà con mời ông lên Thượng Hải. Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám đã thắng lợi nên việc đấu tranh để bà con Việt kiều về miền Bắc cũng là ủng
hộ tích cực cho công cuộc cách mạng. Tổ chức của bà con Việt kiều được củng cố,
kẻ địch phải nhượng bộ, không thực hiện được âm mưu đã vạch. Bà con thêm tin tưởng
vào cách mạng. Cũng vì yêu quê hương, ông lấy tên mình là Đào Chính
Nam với nghĩa “người con dòng họ Đào chính là dân đất Việt”.
Tháng
6-1946, Chính phủ ta cử
ông Nguyễn Sĩ Túc và ông Thế thay mặt Bộ
Ngoại giao sang làm việc với Chính phủ Thượng Hải. Ông cùng tham gia thương thảo. Tháng
7-1946, họ phải cho tàu đưa 2.000 bà con về Đồ Sơn. Tại đây, giặc Pháp cho tàu
chiến ra uy hiếp, ngăn cản không cho cập bến. Ông cùng đại diện của ta hội ý rồi
cho tàu vào sát chân núi thả neo; mặt khác điện cho Chính phủ. Sau cuộc điều
đình suốt từ sáng cho tới 4 giờ chiều, chúng mới cho tàu vào cảng Hải Phòng. Số
Việt kiều lên tàu hỏa về Hà Nội và được đón về trường Trưng Vương. Ông Võ
Nguyên Giáp cử đặc phái viên Phan Tử Lăng ra đón gần 1000 lính khố xanh, khố đỏ,
cảnh sát trong số hồi hương bổ sung ngay cho các đơn vị chiến đấu.
Tham gia
vào sự nghiệp
cách mạng trong nước
Tại
Hà Nội, ông Đào Chính Nam
gặp lại người cháu ruột là Đào Phúc Lộc (lúc
đó là Trưởng phòng Tình báo Quân ủy Hội) và Hồ Ngọc Lan
(con gái nhân sĩ cách mạng Hồ Học Lãm). Ông Nguyễn Sơn - Khu trưởng Khu V ra họp,
được chị Lan báo tin, đã lại thăm và mời bạn về Khu V làm việc. Đã nhận lời
nhưng khi đến Bộ Tư lệnh Tiếp phòng quân
thì gặp cụ Hồ Tùng Mậu (khi đó là Bí
thư Xứ ủy Trung Kỳ) và Thiếu tướng Lê Thiết Hùng. Cụ Mậu giữ lại, giao nhiệm vụ mở lớp Sơ cấp
quân sự ở Quần Ngựa cùng Chính ủy Trần Văn Quang.
Tới
tháng 11-1946, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho ông vào Khu IV làm Chủ nhiệm
Tham mưu cùng Khu trưởng Lê Thiết Hùng và Chính ủy Trần Văn Quang. Khi đi thị
sát chiến trường, phát hiện trình độ tác chiến của bộ đội còn thấp, ông đề nghị
mở gấp lớp Bổ túc quân sự Đoàn Kỳ và thành lập Trung đoàn chủ lực. Trung đoàn
do ông chỉ huy đã phá tan cuộc tấn công của giặc Pháp ở Hồi Xuân, La Hán và Bắc
Mọt.
Năm
1948, ông nhận nhiệm vụ Khu trưởng Phân khu Bình-Trị-Thiên kiêm Phó tư lệnh Khu
IV (khi Nguyễn Sơn về làm Khu trưởng). Năm 1949, ông được điều ra Bắc làm Tư lệnh Quân khu Đông Bắc nhưng vì Trường
quân sự Trung, Cao
Soi Mít (Thái Nguyên) thiếu cán bộ nên
ông được điều về làm Phó giám đốc (sau là Giám đốc) với
quân hàm đại tá. Khi nói về ông, Trung tướng Đặng Quân Thụy (sau là Phó chủ
tịch Quốc hội khóa X) có viết: Chúng tôi tuy đều đã là những cán bộ cấp D-E
(tiểu, trung đoàn) về học, nhưng một trong những môn học đầu tiên là môn Điều
lệnh đội ngũ. Thầy giáo dạy môn này là đồng chí Đào Chính Nam. Điều làm chúng
tôi hết sức thán phục là tuy thầy tuổi đã cao, nhưng khi làm động tác mẫu cho
chúng tôi xem thì rất chuẩn xác và nhuần nhuyễn. Có học viên còn so sánh “động
tác thầy làm như động tác của nghệ sĩ múa”. Thầy dạy rất tỷ mỉ, chính xác từng
động tác: từ cách vung tay, giữ đứng thân người khi đi, khi đứng, cách hô khẩu
lệnh khi tập trong tổ, tiểu đội đến các động tác phối hợp trong toàn tổ, đội
sao cho đều nhau… Thầy luôn nhắc nhở chúng tôi phải thường xuyên rèn
luyện thì mới có thể thuần thục, trở thành tác phong của bộ đội chính quy…
Từ
1950-1960, ông là Hiệu phó trường Lục quân Việt Nam đóng quân tại Vân Nam, rồi chuyển về Quế Lâm (Trung
Quốc), sau đó về nước ở Quần Ngựa, Bạch
Mai và Sơn Tây cùng Thiếu tướng Hiệu trưởng Lê Thiết Hùng (sau 1954 là Lê Trọng Tấn)
và Thiếu tướng Chính ủy Trần Tử Bình. Sau đó, ông còn kiêm Cục phó Cục Quân
huấn rồi về công tác ở Tổng cục Chính trị đến
1969 thì nghỉ hưu tại Sơn Tây.
Kỉ niệm với Nguyễn Sơn,
chuyện không phải ai cũng biết
Trong dân gian thêu dệt khá nhiều chuyện li kì về Tướng Nguyễn
Sơn. Còn đây là những gì tôi ghi chép được từ Đào Thanh, con trai cụ Đào Chính
Nam – người có quan hệ thân tình với cụ Nguyễn Sơn.
Chuyện phong hàm Thiếu tướng
Sau này ông Nguyễn Minh Quang (nguyên Trưởng ban Tình báo Liên
khu IV) kể lại: Cuối tháng giêng năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí quyết định
tấn phong cho ông Võ Nguyên Giáp là đại tướng. Ngày hôm sau phong cấp thiếu
tướng cho các ông: Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm, Trần Tử Bình, Văn
Tiến Dũng, Lê Hiến Mai, Lê Thiết Hùng, Trần Đại Nghĩa, Chu Văn Tấn. Năm ngày
sau thì phong tiếp cấp trung tướng cho Nguyễn Bình.
Nhận tin này, ông Nguyễn Sơn có ý trì hoãn, không nhận hàm
thiếu tướng và cử một cán bộ hỏa tốc phi về Trung ương gặp Bác, mang theo lá thư,
đại ý: "Tôi xin nhường cho Khu phó Đào Chính Nam lên Thiếu tướng, còn tôi
tài sơ đức mỏng xin Bác cho tôi chức Đại tá là đủ rồi".
Sau đó Bác đã có thư vào. Ngoài phong bì đề “Gửi Sơn đệ”,
trong thư có mấy dòng chữ Hán nắn nót: “Đảm dục đại/ Tâm dục tế/ Trí dục viên/
Hạnh dục phương” và kí tên Hồ Chí Minh. (Ý Bác muốn nói: cái gan cần phải lớn; cái tâm nên tế nhị, chín chắn;
cái trí phải suy nghĩ trước sau, toàn diện; cái đức hạnh phải đầy đủ, ngang thẳng; khiến ông chấp nhận. Và Thứ trưởng Phạm Ngọc Thạch thay mặt Chính phủ vào tận Thanh
Hóa làm lễ tấn phong cho ông.
Chuyện ông Nguyễn Sơn cưới vợ
Ông Võ Thúc Loan, nguyên thư ký Bộ Tư lệnh Liên khu IV năm 1947-1949
kể lại, Bộ Tư lệnh sau khi nghe tin bà vợ Trung Quốc Trần Kiếm Qua và hai con
của ông Sơn đã chết vì bom thì có ý định tìm cho ông một người vợ mà chủ xướng
là ông Đào Chính Nam. Ở quanh vùng Bàn Thạch, các gia đình văn nghệ sĩ Hà Nội
tản cư vào rất đông. Chiều nào họ cũng tập trung ở nhà cụ Lê Dư (một nhà văn
hóa lớn, từng bôn ba hải ngoại) để hàn huyên. Cụ Lê Dư lại có mấy cô con gái
đến tuổi cập kê (Lê Hằng Phương (sau là vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan), Lê Hằng Phấn
(sau là vợ nhà văn Hoàng Văn Chí) và cô út Lê Hằng Huân). Được ông Tú Chí mách
mối, ông Đào Chính Nam “lên kich bản” khá chu đáo.
Ngày ấy, nhân dân quanh vùng đóng quân đồn thổi hình ảnh một
Nguyễn Sơn rất nghiêm khắc, hách dịch. Ai gặp cũng né tránh. Để đánh tan dư
luận, ông Nam phối hợp cùng Hội Văn hóa kháng chiến Liên khu, mời ông Sơn nói
về Truyện Kiều. Kì lạ, một con người “dữ tướng với râu hùm, hàm én” lại thuộc
và thông hiểu Truyện Kiều một cách sâu sắc. Ông thao thao bất tuyệt giảng giải
làm bộ đội, nhân dân say sưa lắng nghe rồi nể phục. Sau này ai cũng nói ông Sơn
là Tướng văn nghệ.
Rồi chính ông Nam lại tạo một kịch bản khác: khéo léo sắp xếp cho
ông Sơn gặp bà Huân ở ngay nhà cụ Lê Dư. Chả hiểu trò chuyện tâm đầu ý hợp thế
nào mà Tư lệnh bằng lòng ở lại ăn cơm với gia đình cùng Phó tư lênh Đào Chính
Nam và ông Tú Chi. Trước ngày cưới (sau lễ thụ phong cấp tướng cho Nguyễn Sơn),
trong lúc vui chuyện, Sơn Tư lệnh đùa bà Hằng Huân: “Duyên cớ nào mà cô lại lọt
thỏm vào thâm cung của Bộ Tư lênh nhỉ?”. Hằng Huân hơi tự ái và trách yêu
chồng: “Ông hãy về hỏi Phó tư lệnh Đào Chính Nam nhà ông thì rõ. Về mặt quân sự
các ông đã tài mà bủa vây ''mục tiêu định nhắm" cũng rất bài bản, chi tiết
không kém, làm cho đối phương hút hồn, chỉ còn nước phục tùng. Chả trách các
ông vừa đánh trống vừa la làng là phải!”.
…
Suốt
80 năm cuộc đời với gần 20 năm là chiến sĩ cộng sản quốc tế và hơn 20 năm là
cán bộ cao cấp trong quân đội, tên tuổi ông đã làm rạng danh cho lớp người tiên
phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông được Hồ Chủ tịch tặng huy hiệu của Người.
Năm 2002, Đào Chính Nam được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng II cùng nhiều huân, huy
chương cao quý và được công nhận là Lão
thành cách mạng.
Đến
thăm gia đình ông, được đọc cặp câu đối liễn do chính tay cụ Phan Bội Châu viết, treo bên ban thờ họ tộc
“Thánh thừa ngọc thị ứng thỉnh trung/ Phật
ngự kim liên phù gia nội”, (ý: Lòng yêu nước thương dân của họ Đào như viên
ngọc quý giữa đời thường/ Phật ngồi trên tòa sen sẽ phù hộ cho cả gia tộc) mà
thêm cảm phục dòng họ Đào yêu
nước!
TRẦN KIẾN QUỐC
Cuong Nguyen Khi ở khu 5 ông Sơn khong phải là chính ủy hay tư lệnh khu 5 TKQ ơi lúc đó Ông Sơn là chủ tich ủy ban kháng chiến MNVN sau này gọi là CTUBKC nam trung bộ . Lúc đó ông Nguyễn Chánh mới là chính ủy LK 5 .sau này khoảng cuối 46 ông được điều ra LK 4 rồi thay cụ HTM làm khu trưởng khu 4 ( phụ trách cả QS lẫn dân chính ) cái này mình có tư liệu của báo cứu quốc khu 4 do một cục trưởng lưu trữ sưu tầm và in thành sách . Còn ông Đào Chính Nam có một thơi cùng ở LK 4 với ông Sơn thì mình và Đào Thanh K7 trao đổi với nhau khá nhiều . Mọt vài lời đính chính Trần Kiến Quốc thông cảm nhé
Trả lờiXóaOK, cảm ơn thông tin của anh!
XóaLê Hồng Phong không tham gia Quảng Châu công xã vì lúc đó đã đi Liên Xô.
Trả lờiXóaCụ Đào Chính Nam năm 1948 đã làm liên khu trưởng khu 4 theo săc lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh, hẳn là thay cho tướng Nguyễn Sơn. Chính trị ủy viên là cụ Nguyễn Trương Bờn.
Trả lờiXóa